Chuyển đến nội dung chính

Cách tính số tiền đánh bạc và căn cứ xác định khung hình phạt về tội đánh bạc được thêm từ Google Docs Hangoctuyen

Cách tính số tiền đánh bạc và căn cứ xác định khung hình phạt về tội đánh bạc

Cách tính số tiền đánh bạc và căn cứ xác định khung hình phạt về tội đánh bạc

Các tính số tiền đánh bạc và căn cứ xác định khung hình phạt về tội đánh bạc là một trong những vấn đề phức tạp. Tội đánh bạc ngày càng đa dạng, thể hiện qua nhiều hình thức khác nhau, vì vậy xác định rõ căn cứ tính tiền và định khung hình phạt có vai trò quan trọng trong việc xử lí chính xác, đúng đắn người có hành vi đánh bạc phi pháp. Mời bạn đọc theo dõi bài viết sau đây để cập nhật thêm những thông tin hữu ích về vấn đề này.

cách tính số tiền đánh bạc và xác định khung hình phạtCách tính số tiền đánh bạc và xác định khung hình phạt tội đánh bạc

Cấu thành tội đánh bạc theo quy định Bộ luật Hình sự 2015

Đánh bạc là hành vi tham gia vào một trò chơi mà kết quả của việc thua hay thắng được quy đổi thành giá trị vật chất cụ thể để tham gia trò chơi. Tuy nhiên không phải trường hợp nào đánh bạc cũng là hành vi phạm tội. Để xác định hành vi đánh bạc có cấu thành tội phạm hay không, cần căn cứ vào Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015, luật sửa đổi bổ sung năm 2017 (BLHS 2015) như sau:

  • Khách thể của tội phạm:

Người phạm tội đánh bạc xâm phạm đến khách thể chung mà BLHS bảo vệ là an ninh, trật tự, an toàn xã hội theo Điều 8 BLHS 2015. Cụ thể, khách thể loại được xác định là xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng (chương XXI).

  • Mặt khách quan của tội phạm.

Người phạm tội thực hiện hành vi đánh bạc bằng nhiều hình thức khác nhau. Trong nhiều trường hợp, pháp luật vẫn cho phép các trường hợp tham gia các hoạt động thua bằng tiền hay hiện vật dưới hình thức lô tô, xổ số,… tuy nhiên đây là những hình thức chính thống được công nhận. Vì vậy, hành vi của người đánh bạc phải là hành vi đánh bạc trái phép.

“Đánh bạc trái phép” là hành vi đánh bạc được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong giấy phép được cấp.

  • Chủ thể của tội phạm

Thứ nhất, “người nào” theo như mô tả cấu thành tội phạm trên được hiểu là tất cả những người đủ tuổi và đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Theo quy định tại Điều 12 BLHS 2015, người đủ 16 tuổi trở lên chịu trách nhiệm hình sự về tội này. Đồng thời tội đánh bạc không rơi vào trường hợp tội rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng nên người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không là chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự cho tội này.

Thứ hai, nếu đánh bạc mà giá trị tài sản dưới 5.000.000 đồng thì người có hành vi hành đánh bạc phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc hoặc hành vi tổ chức đánh bạc,gá bạc hoặc đã bị kết án nhưng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì mới là chủ thể của tội phạm này.

  • Mặt chủ quan của tội phạm

Người phạm tội thực hiện hành vi đánh bạc là do lỗi cố ý. Họ nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc để mặc cho hậu quả xảy ra dù không mong muốn.

>>>Xem thêm: Tội gá bạc bị xử lý như thế nào? Thủ tục nhờ luật sư bảo vệ

Căn cứ tính số tiền đánh bạc

Số tiền đánh bạc là một trong những căn cứ quan trọng để xác định cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, hành vi đánh bạc trái phép thường xảy ra nhiều lần, mỗi lần có quy mô khác nhau. Cách tính số tiền đánh bạc được quy định chi tiết tại khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP, về cơ bản dựa trên hai căn cứ sau:

Thứ nhất, số tiền đánh bạc phải căn cứ vào tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc (gọi chung là số tiền) của từng lần đánh bạc để xem xét, không dựa vào tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc của tất cả các lần đánh bạc. Số tiền này sẽ được xem xét, đánh giá để quy trách nhiệm hình sự dựa trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (5.000.000 đồng) và các căn cứ khác như nhân thân người phạm tội, tình tiết tăng nặng, định khung tăng nặng,… Cụ thể:

  • Số tiền từng lần đánh bạc đều dưới 5.000.000 đồng và không thuộc trường hợp đã bị kết án về tội đánh bạc hoặc tội tổ chức đánh bạc, gá bạc chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc;
  • Số tiền dùng đánh bạc của lần đánh bạc nào từ 5.000.000 đồng trở thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc đối với lần đánh bạc đó
  • Đánh bạc từ hai lần trở lên mà giá trị của từng lần đều từ 5.000.000 đồng trở lên thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình tiết tăng nặng “phạm tội nhiều lần”
  • Đánh bạc từ năm lần trở lên mà giá trị của từng lần đánh bạc đều từ 5.000.000 đồng trở lên và lấy tài sản thu được làm nguồn sống chính thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình tiết định khung “có tính chất chuyên nghiệp”.

Thứ hai, tiền hoặc hiện vật dùng làm căn cứ tính số tiền đánh bạc được xác định trên nhiều vị trí khác nhau bao gồm:

  • Thu giữ được trực tiếp tại chiếu bạc;
  • Thu giữ trong người các con bạc được xác định có căn cứ đã hoặc sẽ dùng để đánh bạc;
  • Tiền hoặc hiện vật có đủ căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc được thu giữ ở bất kỳ nơi nào khác.

Tính số tiền đánh bạc trong các trường hợp cụ thể Trường hợp nhiều người cùng tham gia đánh bạc

Theo quy định tại khoản 4 Điều 1 Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP, khi nhiều người cùng tham gia đánh bạc với nhau thì việc xác định tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc đối với từng người đánh bạc là tổng số tiền, giá trị hiện vật của tất cả người tham gia theo từng lần (từ lúc bắt đầu đến khi bị bắt) đánh bạc như căn cứ chung đề cập ở trên. Tất cả những người tham gia trong cùng một lần đó sẽ bị truy cứu TNHS nếu tổng số tiền trên đủ định lượng.

Chẳng hạn, một chiếu bạc có 10 người tham gia. Khi bị phát hiện, tại thời điểm đó tổng số tiền bị thu trên chiếu bạc tổng là 5.000.000 đồng thì từng người tham gia đều bị truy cứu TNHS với số tiền đánh bạc được tính là 5.000.000 đồng cho lần đánh bạc đó, bất kể họ tham gia với số tiền bao nhiêu. Số tiền thực tế của mỗi người tham gia chỉ là căn cứ để xem xét mức phạt chứ không là căn cứ để định tội.

Trường hợp đánh bạc dưới hình thức chơi số đề, cá độ bóng đá, cá độ đua ngựa…

Trong trường hợp này thì một lần chơi số đề hay cá độ bóng đá hay các hình thức tương đương khác được hiểu bao gồm cả nhiều đợt trong một lần chơi đó. Số tiền đánh bạc được tính để quy trách nhiệm hình sự cho một người trong một lần đánh bạc được tính là tổng giá trị tài sản đã dùng để chơi trong các đợt thuộc lần chơi đó. Đồng thời, nếu tham gia nhiều đợt, số tiền tham gia mỗi đợt từ 2.000.000 đồng trở lên thì cũng không xem là phạm tội nhiều lần. Để hướng dẫn cho trường hợp này, Nghị quyết số 02/2010/NQ-HĐTP đưa ra ví dụ sau:

Ví dụ: Ngày 20-7-2010, trong khoảng thời gian từ 10 giờ đến 16 giờ, B mua ba số đề trong một lô đề cụ thể là: mua số 17 với số tiền là 500.000 đồng, mua số 20 với số tiền 2.100.000 đồng, mua số 25 với số tiền 3.000.000 đồng; trong trường hợp này, chỉ coi B đánh bạc một lần.

Cách tính số tiền đánh bạc trong trường hợp này khá phức tạp, được xác định dựa trên hướng dẫn tại khoản 5 Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP.

Đối với người chơi:

  • Trúng số đề, thắng cược cá độ: số tiền dùng đánh bạc được tính là tổng số tiền mà họ đã bỏ ra để mua số đề, cá độ cộng với số tiền thực tế mà họ được nhận từ chủ đề, chủ cá độ.
  • Không trúng số đề, không thắng cược cá độ hoặc bị phát hiện, ngăn chặn trước khi có kết quả mở thưởng: số tiền dùng đánh bạc là tổng số tiền mà họ đã bỏ ra để mua số đề, cá độ.

Đối với người chủ đề, chủ cá độ:

  • Có người chơi trúng số đề, thắng cược cá độ: số tiền dùng đánh bạc là toàn bộ số tiền thực tế đã nhận của những người chơi và số tiền mà họ phải bỏ ra để trả cho người trúng (có thể là một hoặc nhiều người).
  • Không có người chơi nào trúng số đề, thắng cược cá độ hoặc đã bị phát hiện, ngăn chặn trước khi có kết quả: số tiền dùng đánh bạc là tổng số tiền mà chủ đề, chủ cá độ đã nhận của những người chơi.

>>>Xem thêm: Đánh bạc bao nhiêu tiền thì phải chịu trách nhiệm hình sự

tính số tiền đánh bạc trong các trường hợp cụ thểTính số tiền đánh bạc trong các trường hợp cụ thể

Căn cứ xác định khung hình phạt về tội đánh bạc Khung hình phạt cơ bản

Khung hình phạt cơ bản của tội đánh bạc được quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS 2015. Khung hình phạt này được áp dụng đối với người phạm tội theo những cấu thành cơ bản, là mức vi phạm thông thường, không có các tình tiết tăng nặng định khung. Theo đó, khung hình phạt này bao gồm các hình phạt chính sau:

  • Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng
  • Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm;
  • Phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Theo đó, mức phạt tiền nhẹ nhất trong khung hình phạt này là 20.000.000 đồng và nặng nhất là 100.000.000 đồng. Mức phạt tiền cụ thể sẽ được quyết định căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, đồng thời có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội.

Trong trường hợp người phạm tội đánh bạc đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng, nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly khỏi xã hội thì sẽ được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ theo quy định tại Điều 36 BLHS 2015.

Tình tiết tăng nặng

Mức xử phạt của người phạm tội đánh bạc được xác định theo căn cứ tại khoản 1 Điều 50 BLHS 2015. Theo đó, Toà án phải căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt.

Người phạm tội đánh bạc có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự ở Điều 52 BLHS 2015 (không thuộc các tình tiết được quy định là tình tiết tăng nặng định khung) sẽ làm thay đổi mức độ nguy hiểm trong vụ án. Tình tiết tăng nặng phổ biến của tội đánh bạc là đánh bạc từ hai lần trở lên, trong đó giá trị tài sản dùng đánh bạc của từng lần đều từ 5.000.000 đồng trở lên. Trong trường hợp này, ngoài những cấu thành cơ bản mà người phạm tội có thêm tình tiết này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình tiết tăng nặng “phạm tội nhiều lần” theo khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP. Tình tiết tăng nặng này được Nghị quyết trên quy định theo điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS 1999, tương ứng với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội từ 02 lần trở lên” theo điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS 2015. Trong trường hợp này, người phạm tội sẽ phải chịu mức phạt nặng hơn trong khung hình phạt áp dụng, tuy nhiên sẽ không cao hơn mức cao nhất của khung hình phạt đó

Tình tiết giảm nhẹ

Khi vi phạm tội đánh bạc, người phạm tội có các tình tiết giảm nhẹ cũng sẽ phải chịu mức phạt thấp hơn so với thông thường. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là các tình tiết được quy định tại Điều 52 BLHS 2015, thể hiện sự ngăn chặn, hạn chế tác hại của người phạm tội. Một số tình tiết giảm nhẹ có thể được xem xét khi phạm tội đánh bạc như:

  • Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
  • Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
  • Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
  • Người phạm tội là phụ nữ có thai;
  • Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

Ngoài những tình tiết giảm nhẹ được quy định cụ thể trên, BLHS 2015 cũng quy định khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ kèm theo đó phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.

Bên cạnh đó, pháp luật hình sự cũng thể hiện sự khoan hồng đối với người phạm tội khi quy định tại Điều 54 BLHS 2015 rằng, trong trường hợp người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS 2015, Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn.

Với tội đánh bạc, BLHS chỉ quy định hai khung hình phạt cơ bản và tăng nặng, vì thế căn cứ khoản 3 Điều 54 BLHS 2015, người phạm tội đủ điều kiện trên mà thuộc định khung cơ bản thì có thể được Tòa án quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Nếu người phạm tội phải chịu trách nhiệm theo khung tăng nặng tại khoản 2 Điều 321 BLHS 2015 thì có thể được xem xét hình phạt dưới mức thấp nhất của khung này nhưng sẽ trong khung hình phạt cơ bản ở khoản 1 Điều này (khung hình phạt liền kề nhẹ hơn).

Ngoài các hình phạt được quy định theo từng khung, người phạm tội còn có thể bị xử phạt bổ sung từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng trong trường hợp không bị áp dụng hình phạt chính là phạt tiền.

căn cứ xác định khung hình phạt tội đánh bạc

Căn cứ xác định khung hình phạt tội đánh bạc

>>>Xem thêm: Mức hình phạt tội đồng phạm đánh bạc công nghệ cao

Thông tin liên hệ Luật sư

Để được tư vấn cho trường hợp cụ thể, bạn đọc có thể liên hệ Luật sư Long Phan PMT theo các thông tin sau:

Hỗ trợ tư vấn trực tiếp:

  • Tại TRỤ SỞ CÔNG TY: Tầng 14 Tòa nhà HM Town, 412 Nguyễn Thị Minh Khai, Phường 5, quận 3, TP.HCM.
  • Tại Văn Phòng Luật sư Quận Bình Thạnh: 277/45 Xô Viết Nghệ Tĩnh, Phường 15, Bình Thạnh, HCM.

Hỗ trợ tư vấn trực tuyến:

  • Tư vấn qua EMAIL: Quý khách hàng muốn được tư vấn chi tiết, cụ thể bằng văn bản qua email vui lòng gửi mail trình bày vấn đề kèm các tài liệu liên quan đến pmt@luatlongphan.vn hoặc info@luatlongphan.vn để đội ngũ luật sư tiếp nhận và tư vấn nhanh chóng.
  • Tư vấn qua ĐIỆN THOẠI: Quý khách hàng vui lòng gọi đến tổng đài 1900 63.63.87 để trình bày nội dung cần tư vấn, đặt câu hỏi hoặc đặt lịch hẹn tư vấn với Luật sư.
  • Tư vấn qua ZALO: Quý khách hàng vui lòng kết nối Zalo theo số điện thoại 0819 700 748 để nhận được sự hỗ trợ chi tiết từ Luật sư.
  • Tư vấn qua FACEBOOK: FANPAGE Luật Long Phan

Bài viết trên đây đã cung cấp cho bạn đọc các thông tin về cách tính số tiền đánh bạc và căn cứ xác định khung hình phạt về tội đánh bạc. Nếu Quý khách hàng có nhu cầu đặt lịch tư vấn hay giải đáp các thắc mắc khác, vui lòng liên hệ với Công ty Luật Long Phan PMT qua số hotline 1900.63.63.87 để được TƯ VẤN LUẬT HÌNH SỰ hoặc trao đổi trực tiếp với LUẬT SƯ HÌNH SỰ. Xin cảm ơn!

Thông qua tổng đài 1900.63.63.87, Luật sư của Long Phan PMT hy vọng có thể giúp đỡ được nhiều người với nhiều nhu cầu dịch vụ pháp lý khác nhau. Hotline 1900.63.63.87 luôn sẵn sàng lắng nghe những thắc mắc từ quý khách hàng mọi lúc, mọi nơi, kết nối bạn đến với những tư vấn từ những luật sư giỏi về chuyên môn, nhiệt tình trong công việc.

*Lưu ý: Nội dung tư vấn trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp. Mọi thắc mắc, góp ý xin vui lòng liên hệ về email: pmt@luatlongphan.vn hoặc info@luatlongphan.vn.



/Hangoctuyen/Tai Nguyen/Luat Hinh Su
Xem thêm Google Doc Hangoctuyen

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại trong trường hợp nào được thêm từ Google Docs Hangoctuyen

Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại trong trường hợp nào Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại trong trường hợp nào? Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại  nhằm đảm bảo quyền, lợi ích của bị hại . Trong trường hợp này, cơ quan có thẩm quyền không tự quyết định khởi tố vụ án hình sự  mà việc khởi tố  được thực hiện theo yêu cầu của bị hại. Vậy những trường hợp nào được khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu bị hại? Bài viết sau đây sẽ giải đáp cho quý bạn đọc. Khi nào được khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu bị hại? Các trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại Theo quy định tại Điều 155 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 (sau đây viết tắt là BLTTHS), cơ quan tiến hành tố tụng chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi có yêu cầu của bị hại nếu dấu hiệu tội phạm thuộc quy định khoản 1 các điều sau trong Bộ luật Hình sự: Điều 134: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Điều 135: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự thuộc về những cơ quan nào được thêm từ Google Docs Hangoctuyen

Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự thuộc về những cơ quan nào Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự thuộc về những cơ quan nào? Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự  được pháp luật quy định cụ thể như thế nào khi xác minh vụ việc có dấu hiệu của tội phạm các cơ quan có thẩm quyền  sẽ ra quyết định khởi tố vụ án . Hãy cùng   Luật sư hình sự   thông qua bài viết dưới đây để làm rõ thêm nội dung của quy định trên. Căn cứ khởi tố vụ án hình sự >>>Xem thêm: Cách xác định thẩm quyền điều tra trong vụ án hình sự Căn cứ khởi tố vụ án hình sự Tố giác của cá nhân Việc khởi tố vụ án  hình sự chỉ được tiến hành khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Theo đó, căn cứ Điều 143 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (Bộ luật TTHS 2015) thì tố giác của cá nhân là một trong những căn cứ để xác định dấu hiệu tội phạm. Tố giác về tội phạm là việc cá nhận phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền  (Khoản 1 Điều 144 Bộ luật TTHS 2015). Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá

Chứng cứ và quyền yêu cầu thu thập chứng cứ trong vụ án hình sự được thêm từ Google Docs Hangoctuyen

Chứng cứ và quyền yêu cầu thu thập chứng cứ trong vụ án hình sự Chứng cứ và quyền yêu cầu thu thập chứng cứ trong vụ án hình sự Chứng cứ   có vai trò đặc biệt quan trọng trong các vụ án hình sự , là căn cứ để người có thẩm quyền xác định có hay không hành vi phạm tội. Vậy thì chứng cứ và quyền yêu cầu thu thập chứng cứ trong vụ án hình sự  được quy định như thế nào? Hãy cùng   Luật sư hình sự   tìm hiểu vấn đề trên thông qua bài viết dưới đây. Chứng cứ trong vụ án hình sự >>>Xem thêm: Cách tiếp cận chứng cứ trong vụ án hình sự như thế nào Nguồn của chứng cứ trong vụ án hình sự Vật chứng Theo quy định tại Điều 89 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (Bộ luật TTHS 2015) thì vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội, vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm, tiền hoặc vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án. Việc thu thập  vật chứng phải được tiến hành kịp thời, đầy đủ, mô tả